Di sản Charlie_Chaplin

Chaplin hình thành nhân vật Tramp (Charlot) năm 1915, được xem là "biểu tượng phổ biến nhất" của điện ảnh[407]

Năm 1998, nhà phê bình điện ảnh Andrew Sarris gọi Chaplin "có lẽ là nghệ sĩ đơn lẻ quan trọng nhất mà nền điện ảnh từng sinh ra, và chắc chắn là nghệ sĩ trình diễn phi thường nhất và hẳn vẫn là biểu tượng phổ biến nhất của nó".[407] Ông được Viện Phim Anh mô tả là "một nhân vật xuất chúng tột bậc của văn hóa thế giới",[408] và tạp chí Time xếp ông vào danh sách 100 nhân vật quan trọng nhất thế kỷ XX vì "tiếng cười [mà ông đem lại] cho hàng triệu người" và bởi ông "ít nhiều đã sáng tạo nên tính ghi nhận toàn cầu và giúp chuyển đổi một nền công nghiệp [điện ảnh] trở thành một môn nghệ thuật".[409]

Hình ảnh nhân vật Tramp đã trở thành một phần của lịch sử văn hóa;[410] theo Simon Louvish, nhân vật này có thể nhận ra được với cả những người chưa từng xem một phim của Chaplin, và ở những nơi mà phim của ông chưa từng được chiếu.[411] Nhà phê bình Leonard Maltin đã viết về đặc tính "độc nhất" và "bất hủ" của Tramp, và khẳng định rằng không một nghệ sĩ hài nào có thể so bì với ông về "tầm ảnh hưởng toàn thế giới".[412] Ca ngợi nhân vật Tramp, Richard Schickel gợi ý rằng các phim Chaplin với Tramp chứa đựng "những biểu hiện hùng hồn nhất, giàu tính hài hước nhất của tinh thần nhân văn" trong lịch sử điện ảnh.[413] Những vật kỷ niệm liên hệ với nhân vật vẫn tạo ra những vụ đấu giá giá trị lớn: năm 2006 một chiếc mũ quả dưa và một cây gậy trúc từng thuộc về phục trang của Tramp được bán với giá 140 nghìn đô la tại một cuộc đấu giá ở Los Angeles.[414]

Với tư cách nhà làm phim, Chaplin được xem như một nhà tiên phong và một trong những nhân vật quan trọng nhất của điện ảnh nửa đầu thế kỷ XX.[1] Người ta vẫn thường ghi nhận ông như một trong những nghệ sĩ đầu tiên của môi trường nghệ thuật này[415] Sử gia điện ảnh Mark Cousins viết rằng Chaplin "đã thay đổi không chỉ hình tượng về điện ảnh, mà cả tính xã hội học và cú pháp của nó" và khẳng định rằng Chaplin quan trọng với sự phát triển của thể loại hài kịch cũng như D.W. Griffith quan trọng đối với chính kịch.[416] Ông là người đầu tiên phổ biến các phim hài thời lượng dài và làm chậm lại nhịp độ diễn xuất, thêm vào tính cảm động và sự tinh tế.[417][418] Mặc dầu các tác phẩm của ông thường được xếp vào thể loại pha trò, các phim chính kịch của Chaplin như A Woman of Paris (1923) có ảnh hưởng quan trọng lên phim The Marriage Circle (1924) của Ernst Lubitsch và do đó đóng một phần vào sự phát triển của "hài kịch tinh xảo".[419] Theo David Robinson, những cải tiến của Chaplin "nhanh chóng được đồng hóa thành một phần của công nghệ làm phim."[420] Các nhà làm phim dẫn Chaplin ra như một nguồn ảnh hưởng đối với họ: Federico Fellini, người gọi Chaplin là "một kiểu Adam, mà từ đó tất cả chúng ta sinh ra"),[331] Jacques Tati ("Không có ông ấy tôi sẽ không bao giờ làm một bộ phim nào"),[331] René Clair ("Ông đã gây cảm ứng cho hầu như mọi nhà làm phim"),[330] Michael Powell,[421] Billy Wilder,[422]Richard Attenborough.[423] Andrei Tarkovsky ca ngợi Chaplin là "con người duy nhất đã đi vào lịch sử điện ảnh mà không có một chút nghi ngờ nào. Những phim ông để lại không bao giờ trở nên cũ kỹ cả."[424]

Chaplin cũng ảnh hưởng mạnh mẽ lên các nghệ sĩ hài sau này. Marcel Marceau nói rằng ông có được cảm hứng trở thành một nghệ sĩ diễn kịch sau khi xem Chaplin,[418] trong khi diễn viên Raj Kapoor xây dựng nhân vật màn ảnh của mình dựa trên nhân vật Tramp.[422] Mark Cousins cũng nhận ra phong cách hài kịch của Chaplin trong nhân vật Pháp Monsieur Hulot và nhân vật Ý Totò.[422] Trong các lĩnh vực khác, Chaplin cũng gợi cảm hứng cho các nhân vật hoạt hình Mèo Felix[425]Chuột Mickey,[426] và có ảnh hưởng cả với phong trào nghệ thuật Dada.[427] Là một trong những thành viên thành lập United Artists, Chaplin cũng có một vai trò trong sự phát triển của công nghiệp phim ảnh. Gerald Mast viết rằng mặc dù UA chưa bao giờ trở thành một công ty hàng đầu như MGM hay Paramount Pictures, ý tưởng về các đạo diễn có thể tự sản xuất phim của mình đã "đi trước thời đại nhiều năm".[428]

Trong thế kỷ XXI, một vài phim của Chaplin vẫn được xem là những tác phẩm kinh điển và xếp vào hàng những phim xuất sắc nhất mọi thời đại. Trong cuộc thăm dò của Sight & Sound năm 2012, nhằm chọn ra "top 10" số phiếu từ các nhà phê bình phim và đạo diễn để chọn các phim được ca ngợi nhiều nhất của mỗi nhóm, người ta thấy City Lights hiện diện trong top 50 của các nhà phê bình, Modern Times trong top 100, còn The Great Dictator và The Gold Rush trong top 250.[429] Các phim top 100 do các đạo diễn bầu chọn bao gồm Modern Times ở vị trí thứ 22, City Lights thứ 30, và The Gold Rush thứ 91.[430] Tất cả các phim thời lượng dài của Chaplin đều dành ít nhất 1 phiếu.[431] Năm 2007, Viện Phim Mỹ xướng danh City Lights ở vị trí thứ 11 trong danh sách 100 phim Mỹ hay nhất mọi thời đại, trong khi The Gold Rush và Modern Times cũng nằm trong top 100.[432] Các sách về Chaplin tiếp tục xuất bản đều đặn, và ông là một chủ đề phổ biến của những học giả về truyền thông và nhà sưu tập phim.[433] Nhiều phim Chaplin được tái phát hành dưới dạng DVDBlu-Ray.[434]

Tưởng niệm và ghi danh

Có một số địa danh dành để tưởng niệm Chaplin. Tại thành phố quê hương ông, Bảo tàng Phim Luân Đôn có một triển lãm thường trực về cuộc đời và sự nghiệp của ông mang tên Charlie Chaplin - Người Luân Đôn Vĩ đại, bắt đầu mở cửa từ năm 2010.[435] Một bức tượng Chaplin trong mẫu nhân vật Tramp được đặt ở Quảng trường Leicester, do John Doubleday tạc và khánh thành năm 1981.[436] Thành phố cũng có một con đường mang tên ông, "Charlie Chaplin Walk" ở trung tâm Luân Đôn, trên đó có rạp chiếu phim IMAX London của Viện Phim Anh.[437]

Căn nhà Chaplin sống những năm cuối đời, Manoir de Ban ở Corsier-sur-Vevey, Thụy Sĩ, đang trong quá trình chuyển đổi thành một bảo tàng về ông, và sẽ mở cửa năm 2016.[438] Thị trấn Vevey gần đó có một công viên mang tên ông năm 1980 và dựng một bức tượng tại đây năm 1982.[436] Năm 2011, hai bức tranh tường lớn minh họa Chaplin trên hai tòa nhà 14 tầng cũng được khánh thành ở Vevey.[439] Chaplin cũng được thị trấn Waterville ở Ireland, nơi gia đình ông nghỉ hè vài năm, vinh danh. Một bức tượng được dựng lên tại thị trấn vào năm 1998,[440] và từ năm 2011 thị trấn này là nơi tổ chức Liên hoan Phim Hài kịch Charlie Chaplin, thành lập để tưởng niệm di sản củaChaplin cũng như là nơi trình diễn cho những tài năng hài kịch mới.[441]

Một tiểu hành tinh do nhà thiên văn Liên Xô Lyudmila Karachkina phát hiện năm 1981 được đặt theo tên ông, 3623 Chaplin.[442] Trong suốt những năm 1980, hình ảnh Tramp được IBM sử dụng để quảng cáo máy tính cá nhân.[443] Kỉ niệm 100 năm ngày sinh Chaplin năm 1989 đánh dấu một loạt sự kiện trên khắp thế giới,[fn 31] và ngày 15 tháng 4 năm 2011, một ngày trước sinh nhật lần thứ 122 của ông, Google đăng video đặc biệt trên Google Doodle của các trang chủ thế giới cũng như các trang tên miền quốc gia.[447] Nhiều quốc gia khác trên khắp các châu lục đã vinh danh Chaplin trên các con tem bưu chính.[448]

Con cái của Chaplin lập nên một công ty mang tên Association Chaplin để quản lý di sản của ông, công ty này sở hữu bản quyền về hình ảnh, tên gọi và hầu hết các phim làm sau năm 1918 của ông.[449] Nơi lưu trữ chính của công ty đặt tại Cineteca di Bologna bao gồm 83630 hình ảnh, 118 kịch bản, 976 bản thảo, 7756 lá thư, và hàng nghìn tài liệu khác.[450] Tàng thư ảnh, bao gồm khoảng 10 nghìn bức ảnh về cuộc đời và sự nghiệp của Chaplin, được đặt tại Bảo tàng Elysée tại Lausanne, Thụy Sĩ.[451] Viện Phim Anh cũng đã thành lập Quỹ Nghiên cứu Charles Chaplin, và Hội thảo quốc tế Charles Chaplin lần thứ nhất được tổ chức lại Luân Đôn tháng 7 năm 2005.[452]

Tượng Chaplin trên thế giới. Từ trái sang: 1. Trenčianske Teplice, Slovakia; 2. Chełmża, Ba Lan; 3. Waterville, Hạt Kerry, Đảo Ireland; 4. Luân Đôn, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland; 5. Hyderabad, Ấn Độ; 6. Alassio, Ý; 7. Barcelona, Tây Ban Nha; 8. Vevey, Thụy Sĩ

Tái hiện

Chaplin và Roscoe Arbuckle trong Tango Tangles (1914)

Chaplin là chủ đề của một bộ phim tiểu sử, Chaplin (1992, do Richard Attenborough đạo diễn với Robert Downey, Jr. thủ vai chính).[453] Chaplin cũng là một nhân vật trong The Cat's Meow (2001), do Eddie Izzard thủ vai, và The Scarlett O'Hara War (1980), do Clive Revill.[454][455] Một sê-ri truyền hình về tuổi thơ của Chaplin, Young Charlie Chaplin, phát trên PBS năm 1989 được đề cử Giải Emmy cho Chương trình Thiếu nhi Xuất sắc.[456]

Cuộc đời Chaplin cũng là đề tài cho các tác phẩm sân khấu. Thomas MeehanChristopher Curtis sáng tác một nhạc kịch, Limelight: The Story of Charlie Chaplin, biểu diễn lần đầu tại La Jolla Playhouse ở San Diego năm 2010.[457] Nó được chuyển thể cho Rạp hát Broadway hai năm sau, đổi tên thành Chaplin – A Musical.[458] Chaplin được diễn viên Robert McClure thể hiện trong cả hai phiên bản. Năm 2013, hai vở kịch về Chaplin khởi chiếu ở Phần Lan: Chaplin tại Svenska Teatern,[459] và Kulkuri (The Tramp) tại Tampere Workers' Theatre.[460] Chaplin cũng là nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết Sunnyside (2009) của Glen David Gold, đặt vào bối cảnh Thế Chiến thứ Nhất.[461]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Charlie_Chaplin //nla.gov.au/anbd.aut-an35833702 http://people.ucalgary.ca/~tstronds/nostalghia.com... http://web.viu.ca/davies/H323Vietnam/CharlieChapli... http://archives.24heures.ch/vaud-regions/actu/trac... http://www.elysee.ch/en/collections/chaplin-at-the... http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F047137.php http://www.illustre.ch/Charlie-Chaplin-Charlot_569... http://www.rts.ch/info/suisse/3490412-vevey-les-to... http://www.afi.com/100Years/movies10.aspx http://www.britannica.com/EBchecked/topic/106116